
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam, dân số từ 65 tuổi trở lên được dự báo sẽ vượt quá 15% tổng dân số vào năm 2039. Đây sẽ là thời điểm kết thúc của cơ chế nhân khẩu học vàng đã tồn tại ở Việt Nam kể từ năm 2007.
Bà Naomi Kitahara, đại diện UNFPA tại Việt Nam cho rằng người cao tuổi nên được coi là nguồn lực cho sự phát triển chứ không phải là gánh nặng của xã hội.
Ông đánh giá thế nào về vấn đề dân số già ở Việt Nam?
Quá trình già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng ở Việt Nam, nguyên nhân là do mức chết và mức sinh đều giảm. Tuổi thọ trung bình ở mức 73,6 tuổi (71 tuổi đối với nam và 76,3 tuổi đối với nữ), trong khi tổng tỷ suất sinh đã giảm gần một nửa từ 3,8 năm 1989 xuống còn 2,09 năm 2019. Kết quả là những người từ 60 tuổi trở lên chiếm 12,8%. dân số vào năm 2021, dự kiến sẽ tăng lên 20% vào năm 2036. Điều đó có nghĩa là quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ dân số “già” sang dân số “già” sẽ diễn ra chỉ trong vòng 20 năm.
Việt Nam cũng đang trải qua những thay đổi nhân khẩu học rất thú vị vào thời điểm hiện tại. Thứ nhất, Việt Nam có tỷ lệ dân số trẻ cao nhất trong lịch sử đất nước, tạo ra tiềm năng về tỷ lệ phân chia nhân khẩu học. Tổng dân số Việt Nam có khoảng 20,4 triệu thanh niên từ 10-24 tuổi, chiếm 21% dân số và thời hạn nhân khẩu học dự kiến kéo dài đến năm 2039.
![]() |
Naomi Kitahara, đại diện Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam. Ảnh: Naomi Kitahara |
Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng già hóa ở Việt Nam là gì?
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là già hóa dân số xảy ra, không thực sự vì con người sống lâu hơn, mà là do mức sinh giảm. Ở Việt Nam, trung bình một phụ nữ chỉ có hai con, đây là một sự sụt giảm đáng kể trong những thập kỷ qua.
Mức sinh ở Việt Nam hiện ở mức thay thế và đang có xu hướng giảm. Trước tình hình hiện tại, chúng tôi khuyên Việt Nam nên điều chỉnh chính sách dân số ngay từ bây giờ, phù hợp với các nguyên tắc của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển. Các cá nhân và các cặp vợ chồng nên có thể quyết định một cách tự do và có trách nhiệm về số lượng, thời gian và khoảng cách của con cái. Điều cần thiết là phải xem xét kỹ lưỡng khía cạnh này để Việt Nam không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi mức sinh thấp và già hóa dân số.
Xã hội Việt Nam chịu tác động của già hóa dân số như thế nào?
Sự gia tăng cả về số tuyệt đối và tỷ lệ NCT trong dân số đòi hỏi phải quan tâm hơn đến bảo trợ xã hội đối với NCT, trong đó có chăm sóc NCT, nhất là khi sự hỗ trợ truyền thống từ gia đình ngày càng giảm do mức sinh thấp, di cư và hiện đại hóa.
Người ta ước tính rằng 11,7% dân số cao tuổi (hoặc 1,47 triệu người cao tuổi) bị ít nhất một khuyết tật chức năng (thị giác, thính giác, khả năng vận động, nhận thức và giao tiếp) và 6,32% dân số cao tuổi (hoặc 796.000 người cao tuổi) bị rất khó thực hiện hoặc không thể thực hiện ít nhất một trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ADLs). Tuy nhiên, hệ thống chăm sóc người cao tuổi chưa được phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao.
Đồng thời, chúng ta phải nhìn nhận rằng già hóa dân số không chỉ mang lại thách thức mà còn cả cơ hội. Những người lớn tuổi có kinh nghiệm và kỹ năng, và cần được coi là nguồn lực để phát triển chứ không phải là gánh nặng cho xã hội. Một môi trường thuận lợi để người cao tuổi có thể tiếp tục làm việc và có thêm các kỹ năng bổ sung thông qua học tập suốt đời là rất quan trọng để người cao tuổi có thể được trao quyền và tham gia vào các hoạt động kinh tế – xã hội. Ngoài ra, nhu cầu chăm sóc người cao tuổi ngày càng tăng có thể mang đến một cơ hội kinh doanh mới cho khu vực tư nhân.
Những tác động của dân số già đối với lực lượng lao động Việt Nam?
Khi tỷ lệ người cao tuổi làm thêm giờ ngày càng tăng, việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trở nên vô cùng thách thức đối với các hệ thống và dịch vụ bảo vệ xã hội và chăm sóc sức khỏe hiện nay. Ngoài ra, mức sinh thấp và sự thay đổi thành phần gia đình và chuẩn mực xã hội ở Việt Nam đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều người cao tuổi sống một mình và nhu cầu được chăm sóc cũng tăng lên. Hơn nữa, hầu hết những người lớn tuổi không có thu nhập, hoặc họ sống bằng thu nhập thấp và không ổn định.
Cần lưu ý rằng mặc dù các hệ thống và dịch vụ dành cho người cao tuổi còn hạn chế, nhưng theo truyền thống, gia đình sẽ cung cấp dịch vụ chăm sóc. những người phụ nữ.
Già hóa sẽ làm giảm tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, dự báo sẽ giảm vào năm 2039 ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta nên thừa nhận rằng những người lớn tuổi ngày nay vẫn khỏe mạnh, vẫn có thể làm việc và cũng sẵn sàng làm việc.
Theo Điều tra Người cao tuổi Việt Nam được thực hiện vào năm 2019, 42,8% người cao tuổi vẫn đang làm việc có thu nhập tại Việt Nam, đặc biệt là người già. Ngoài ra, những người lớn tuổi đang làm việc gần như làm việc toàn thời gian – hơn 35 giờ mỗi tuần. Vì vậy, chúng tôi có thể khai thác các nguồn lực sẵn có này như là lực lượng lao động của Việt Nam.
![]() |
Naomi Kitahara hỗ trợ người già trong quá trình học tập Covid-19 tại Hà Tĩnh. Ảnh: Naomi Kitahara |
Già hóa dân số cũng mang lại cơ hội mở rộng thị trường địa phương và đầu tư cho hàng hóa và dịch vụ hướng đến người cao tuổi, bao gồm cả chăm sóc sức khỏe. Những người lớn tuổi mang trong mình kho kiến thức, chuyên môn và kỹ năng, trí tuệ và các giá trị có thể có giá trị cho xã hội và cần được giữ lại.
Nếu không có sự chuẩn bị, trong 15-20 năm tới, Việt Nam sẽ rơi vào viễn cảnh một người trẻ gánh vác kinh tế cho sáu người già. Nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các thế hệ tương lai, cũng như các cá nhân?
Hiện tại, Việt Nam có tỷ lệ thanh niên cao nhất trong lịch sử, và do đó, “cơ hội nhân khẩu học” vẫn còn mở, và dự kiến sẽ mở cho đến năm 2039. Và xét về số người trong độ tuổi lao động. , nó sẽ vẫn tăng cho đến năm 2034.
Tuy nhiên, với tình trạng già hóa dân số, đến năm 2039, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động sẽ bắt đầu giảm, và chỉ còn dưới hai người trong độ tuổi lao động phải nuôi một người phụ thuộc. Hiện tại, chúng tôi có hơn bốn người trong độ tuổi lao động để hỗ trợ một người phụ thuộc ở Việt Nam. Vì vậy tỷ lệ phụ thuộc sẽ tăng lên.
Muốn vậy, chúng ta cần sớm chuẩn bị cho thế hệ trẻ hiện nay đủ sớm cho giai đoạn già đi của cuộc đời. Chúng tôi gọi đây là cách tiếp cận vòng đời và điều quan trọng là các chính sách và chiến lược của Việt Nam phải tính đến điều này. Trên hết, cần có sự đầu tư đúng mức cho giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là sức khỏe và giáo dục, bao gồm chăm sóc sức khỏe sinh sản và tình dục, giáo dục toàn diện về tình dục và kỹ năng sống. Các kỹ năng sống, thường được gọi là “kỹ năng mềm”, bao gồm kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng giao tiếp, làm việc nhóm, tôn trọng sự đa dạng, lập kế hoạch nghề nghiệp và cuộc sống, v.v., sẽ rất cần thiết cho sự thành công của thế hệ tương lai và những kỹ năng này không nhất thiết phải được dạy ở trường trong nhiều nước.
Theo khảo sát Chuẩn bị cho thâm niên độc lập (báo cáo của Prudential năm 2020), chưa đến 30% dân số có kế hoạch chuẩn bị cho thâm niên độc lập. Chúng ta nên làm gì để nâng cao nhận thức xã hội về việc chuẩn bị cho thâm niên độc lập và đạt được “sự già hóa tích cực”?
Nâng cao nhận thức của cộng đồng về già hóa dân số và những tác động của nó là rất quan trọng. Già hóa dân số sẽ ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống cá nhân và cộng đồng. Những thách thức từ sự thay đổi nhân khẩu học không thể tránh khỏi này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế. Và do đó, những người trẻ tuổi phải nhận thức được tác động của già hóa dân số và chuẩn bị cho nó sớm.
Đây là cách mà chúng tôi gọi là phương pháp tiếp cận vòng đời để giải quyết vấn đề già hóa dân số, để mọi người không phải vật lộn khi về già mà chuẩn bị tốt để đón nhận giai đoạn già đi của cuộc đời.
Chúng tôi nhấn mạnh rằng phụ nữ và trẻ em gái cần nhận được sự quan tâm đặc biệt, do tình trạng thiếu an toàn về tài chính, thiếu các chế độ bảo trợ xã hội và bảo hiểm. Phụ nữ sống lâu hơn nam giới, và do đó, sự già hóa của nữ giới là một thực tế, là một khía cạnh bổ sung của quá trình nữ giới hóa nghèo đói.
Chúng tôi đang làm việc với Chính phủ Việt Nam để củng cố và mở rộng hệ thống bảo trợ xã hội quốc gia bao gồm chương trình trợ giúp xã hội, cơ chế lương hưu và hệ thống chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi. Các hệ thống như vậy phải bao phủ mọi người ở mọi lứa tuổi để giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của họ, đặc biệt đối với tuổi già, hướng tới quá trình già hóa năng động và độc lập hơn.
Ông có thể chia sẻ những dự định sắp tới hay dự định nào của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tại Việt Nam đối với vấn đề già hóa dân số?
UNFPA Việt Nam luôn sát cánh giúp chính phủ đưa ra các chính sách và chương trình ứng phó với già hóa dân số dựa trên bằng chứng. Chúng tôi khuyên nên sử dụng phương pháp tiếp cận vòng đời, nhạy cảm về giới đối với già hóa dân số, đảm bảo rằng chúng ta coi người cao tuổi là nguồn lực chứ không phải gánh nặng trong xã hội. Chúng tôi cố gắng củng cố và mở rộng hệ thống bảo trợ xã hội quốc gia, chương trình trợ giúp xã hội quốc gia và cơ chế hưu trí xã hội cho người cao tuổi.
Gần đây, Quỹ Dân số Liên hợp quốc tại Việt Nam đã bắt đầu quan hệ đối tác mới với Viện Nghiên cứu Mitsubishi (MRI) bằng việc ký kết Biên bản ghi nhớ (MoU) nhằm giải quyết vấn đề già hóa dân số và các vấn đề dân số khác ở Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền và nhân phẩm. của người cao tuổi, cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và xã hội của họ, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho họ.
Bạn có thể mô tả cụ thể hơn những hoạt động đó, và những hoạt động nào nên được ưu tiên thực hiện trước?
UNFPA Việt Nam nhận thấy có nhiều khả năng trong mối quan hệ đối tác này trong việc đổi mới nhằm bảo vệ quyền và phẩm giá của người cao tuổi cũng như cải thiện các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và xã hội của họ. Mối quan hệ đối tác mới này sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi để tăng cường chương trình nghị sự về luật pháp và chính sách của Việt Nam về vấn đề già hóa dân số, và chúng tôi tin rằng đây là điều đúng đắn cần làm.
UNFPA đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam xây dựng, thông qua và thực hiện các chính sách và chương trình ứng phó với các vấn đề dân số trong nhiều thập kỷ, bao gồm cả già hóa dân số để đạt được phát triển bền vững. Việc hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng về già hóa dân số cũng như truyền thông cộng đồng về già hóa và tầm quan trọng của chu kỳ sống và cách tiếp cận chuyển đổi giới là những nội dung chúng tôi đang hỗ trợ tại Việt Nam trong Chương trình Quốc gia thứ 10 hiện nay.
Viện nghiên cứu Mitsubishi, một trong những tổ chức tư vấn hàng đầu của Nhật Bản, đang cung cấp cho khách hàng khu vực tư nhân và nhà nước các dịch vụ nghiên cứu và tư vấn trong nhiều lĩnh vực bao gồm già hóa dân số, chăm sóc và hỗ trợ người cao tuổi. MRI được biết đến là đơn vị có kiến thức và kinh nghiệm sâu sắc trong việc tư vấn các lựa chọn chính sách và các mô hình sáng tạo, đồng thời là một phần trong bộ não của Chính phủ Nhật Bản trong việc giải quyết vấn đề già hóa dân số. Chính năng lực kiến thức này mà UNFPA cho rằng sẽ có lợi cho Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề dân số mới nổi, và đó là mục đích của mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi này.
Nguồn: VNE
Trả lời